Thứ Bảy, 13 tháng 1, 2018

Sách về Vợ Nam Phương: người vấn khăn vành dây cho thê thiếp (kỳ cuối) - VnExpress Giải Trí

Theo tư liệu của tác giả Trịnh Bách kể lại thì cuối mùa xuân năm 1931, nhà báo Mỹ W. Robert Moore đã mục kích lễ nghênh tiếp Vua và Phi tần Thái Lan sang thăm Việt Nam tại đế đô Huế. Bà Hoàng Thái hậu phải đảm đang việc tiếp khách, vì Vua Bảo Đại còn đang học tập tại nước ngoài bên Pháp. Lễ thức và sự to lớn của các buổi tiếp tân, yến tiệc đã khiến ông Moore hồi ức lại các thời điểm lễ tương tự ở đế đô Bắc Kinh trước Cách mạng Tân Hợi 1911.

Nhưng kỷ niệm hấp dẫn nhất của nhà báo Mỹ này khi ở Huế là việc ông được một vị Trưởng Công chúa triều Nguyễn tiếp kiến tại phủ riêng của bà. Ông Moore kể lại rằng: “Vị ái nữ cute của bà Chúa đã độ lượng cho chúng tôi được thưởng thức tài nghệ đàn tranh của cô. Sau đó cô cùng vị giáo sư già khiếm thị và nhạc sĩ số đông dây khác trong phủ thích hợp tấu, khi mà các ca công trẻ hát những bài ca Huế…”. Nàng công nữ xinh đẹp ấy có cái tên “rất Huế” là Mệ Bông. Theo tục lệ cũ kĩ của triều Nguyễn, tất cả thành viên của Hoàng phái đều được gọi là Mệ, và dĩ nhiên cái tên nghe thật dân gian. Tiếng Mệ dần dà đã trở thành âm thanh có tính biểu trưng rất xinh tươi của Huế.

Nam Phương thuường mời Mệ Bông vào cung vấn khăn cho bà. 

Hiền thê Nam Phương thường mời Mệ Bông vào cung vấn khăn cho bà. 

Mẫu thân Mệ Bông là Công chúa Nguyễn Phúc Tôn Thụy, trưởng nữ của Cung Tôn Huệ Hoàng đế Dục Đức. Bà trở thành Trưởng Công chúa khi em trai bà là Hoàng đế Thành Thái lên ngôi năm 1889. Bà được sắc phong tước hiệu Mỹ Lương Công chúa năm 1897, thường được gọi là Bà Chúa Nhất. Công chúa Mỹ Lương có công rất lớn đối với nghệ thuật tuồng cung đình của Việt Nam vào đầu thế kỷ 20. Đội ca vũ tuồng cung đình do bà lập ra và huấn luyện đã trình diễn trong Hoàng cung từ cuối triều Thành Thái, qua các triều Duy Tân, Khải Định và nhất là Bảo Đại. Bà Chúa cũng là một trong những sáng lập viên và mạnh thường quân chính của Hội Lạc Thiện, lập ra để cứu tế, giúp sức đồng bào khốn khổ và các nạn nhân bị thiên tai nói quanh đế kinh. Cha của Mệ Bông là Nguyễn Kế, đại trượng phu của Diên Lộc Huyện công Nguyễn Thân, một vị phụ chính đại thần nổi tiếng cuối triều nhà Nguyễn.

Khi đã là một bà lão ở tuổi cửu tuần, Mệ Bông vẫn chỉ trả lời những nghi vấn liên quan tới tuổi tác bằng những thú vui thật hiền đức. Khi tác giả Trịnh Bách ngỏ lời muốn được chạm mặt và phỏng vấn Mệ Bông vào đầu tháng 9/2001, thân quyến của Mệ tỏ ra lo ngại. Sau khi bị tai biến mạch máu não, Mệ đã nằm liệt giường liệt chiếu gần hai năm, nói năng rất không dễ dàng và Mệ không còn nhớ gì… Trên thực tiễn, Mệ Bông còn nhớ mọi chuyện rất rõ. “Lúc nào trong phủ Đức Bà cũng nuôi năm chục người. Họ vừa là người giúp việc, vừa là a ma tơ, đào hát của đoàn tuồng. Người ca nhiều năm kinh nghiệm nhất trong đoàn là Mụ Liễu. Bên cạnh còn Quý này, Ninh này, Thanh này, Yến này… đông lắm! Đức Bà cho họ huấn luyện cả ngày cả đêm...”. Mệ cũng kể tới một điệu múa mà các vũ công trên đầu vấn khăn, trong mặc áo bào xiêm, ngoài khoác áo lá tua. Đây là điệu múa Nữ tướng mà cậu của Mệ là Vua Thành Thái rất ưa thích. Qua điệu múa có tính chất tuồng này, nhà vua đã gián tiếp bảo lộ hoài bão cứu non sông khỏi thống trị của người Pháp.

Tuy Mệ Bông rất thuần thục về bạn hữu tranh và ca Huế, Mệ chỉ học và tự giải trí thôi. Đa phần ngày giờ của Mệ được dành cho các công tác trong cung. Hình như bà Tiên cung Thái hoàng Thái hậu, bà nội ruột của Hoàng đế Bảo Đại phải chăm nom việc lễ nghi, tiếp khách thì bà Chính cung Thái hoàng Thái hậu, tức bà Thánh Cung thường phải nằm nghỉ trong cung Trường Sanh do bị bệnh khớp nặng. Trong khoảng thuở bé bỏng, Mệ Bông đã phải tham gia đọc sách, truyện giải phiền cho bà Thánh Cung. Vì Mệ rất thân với Hoàng Thái tử Thiền (tức Hoàng đế Bảo Đại sau này) nên bà Thánh Cung coi Mệ như cháu bà.

Các bà trong nội cung cũng đều thích được Mệ Bông vấn khăn vành dây cho họ. Mệ Bông nổi tiếng về tài vấn khăn này. Khăn làm cho bằng nhiễu mỏng, dài trong khoảng 10 đến 20 thước tây. Khăn rộng khoảng 45 phân tây, được xếp lại còn chiều rộng chừng mực năm phân tây. Người có tước phẩm càng cao thì khăn càng dài. Trước hết một đoạn khăn vấn được bao vào tóc để làm nền, rồi khăn vành dây được cuộn tiếp theo, phủ ra ngoài. Khăn vành dây có địa điểm rất cần thiết trong lễ thức của triều đình Huế. Bà Tam giai Diệu tần Phạm Thị Hoài, hoàng hậu Vua Khải Định, đã phải ngủ ngồi phổ biến ngày trong các dịp đại kỵ để khỏi phải vấn khăn lại. Mệ Bông rất hãnh diện về tài vấn khăn với tốc độ cao của Mệ, chỉ mất khoảng hơn nửa giờ là vấn chấm dứt. Hậu phi Nam Phương thường mặc Âu phục, nhưng mỗi lần cần tới triều phục thì bà lại cho vời người vào cung để vấn khăn cho bà.

Các hoàng đế cũng cần tới Mệ Bông vì tài bếp núc của Mệ. Khi cựu hoàng Thành Thái về thăm Huế năm 1953 sau suốt ba thập kỷ bị nhà cầm quyền Pháp an trí ở đảo Réunion thuộc châu Phi, ông đã quyết định: “Ở tại phủ chị Chúa để con Bông nó nấu cho ăn”. Trái với sự hình dong của dân chúng, các hoàng đế ở Huế không ưa chuộng những món tiệc tùng cầu kỳ cho lắm. Các đại yến 60 món, trung yến 49 món, tiểu yến 30 món với ảnh hưởng của China thường được sử dụng để đãi quốc khách hay các quan. Còn mỗi món ăn hàng ngày để hoàng đế ngự thiện có thể nói là đạm bạc. Trong cung có nhì ông bếp chính là ông Lợi người Bắc và ông Nghĩa người Quảng Nam chuyên nấu các cỗ Âu. Nhưng mỗi khi trong cung cần đến tiệc vietnam thì Mệ Bông lại phải tham gia phụ Mã Thông, Mã Trọn – hai đầu bếp món Huế trong cung.

Đối với Mệ Bông thì thời gian đã dừng lại khi nhà Nguyễn cáo chung cùng với việc Bảo Đại thoái vị năm 1945. Sự mất mát lớn nhất trong đời Mệ Bông xảy ra tham gia năm 1948 khi chiến tranh cướp đi đấng phu quân thương yêu của Mệ Bông và Mệ không bao giờ tục hôn nữa. Niềm yên ủi của Mệ hiện nay là cung An Định ở An Cựu, nơi Hoàng Thái hậu Trong khoảng Cung và một vài mệnh phụ còn giữ lại được phần nào nếp sống xưa. Mệ vẫn hay tham gia cung sống với Bà, và giúp Bà với nhị công việc chuộng của Mệ là vấn khăn vành dây và bếp nước.

Năm 1954 lại biến đổi đời Mệ Bông thêm lần nữa. Người con gái độc nhất vô nhị của Mệ Bông ở tuổi 18, bỗng nhiên một hôm bặt tăm. Mua con đến tận Sài Gòn cũng không ra, Mệ hồ hết điên loạn. Mãi nhị năm sau Mệ mới chiếm được thơ của cô gửi trong khoảng Thủ đô cho nhân thức cô đã tập kết ra Bắc để nhập cuộc cách mạng. Rồi sự an toàn của cung An Định cũng không còn khi ông Ngô Đình Diệm ra lệnh quốc hữu hóa cung này. Sau đó ông Diệm lại triệu Mệ Bông vào Sài Gòn để nhờ Mệ cố vấn cho các bữa cỗ bàn trong Dinh Độc Lập. Từ đó Mệ không bao giờ đi về sống ở Huế nữa.

Khi giang sơn hợp nhất 1975, người con gái tập kết năm xưa lặn lội tham gia Sài Gòn mua mẹ. Mệ Bông như được hồi sinh. Mệ xuất gia để tạ ơn Trời Phật và trong khoảng đó Mệ chỉ vui với con cháu, ít khi ra ngoài. Lần sau cùng Mệ Bông trổ tài vấn khăn vành dây là vào dịp đám cưới người cháu gái năm 1985. Các hình bóng một thời thân thiện cũng từ từ ra đi. Thê thiếp Nam Phương mất bên Pháp năm 1963. Bà Chúa Nhất mất năm 1964. Bà An Phi, hậu phi chính của Vua Khải Định mất năm 1978. Bà Hoàng Quý phi Mai Thị Quà, cung phi Vua Duy Tân mất năm 1980. Hoàng Thái hậu Từ Cung cũng mất năm 1980. Hoàng đế Bảo Đại, người bằng hữu họ của Mệ cũng mất tại Pháp năm 1997.

Khi tác giả Trịnh Bách đến thăm và phỏng vấn Mệ Bông, như có một phép lạ, Mệ đã ngồi dậy được để mặc cái áo mệnh phụ tứ thân, giống như áo Bà Chúa Nhất mặc năm xưa, tự sướng lưu lại cho con cháu. Mệ cười thật tươi và đùa rằng nay Mệ được sắc phong.

Khi bài viết của tác giả Trịnh Bách được lên khuôn in, thì ông cũng chiếm được tin Mệ Bông, tức Tôn Nữ Nguyễn Thị Cẩm Hà, nhân chứng cuối cùng của cung tiến thưởng điện ngọc triều Nguyễn đã khuất ngày 19/9/2001.

Phần 1. Hết trích đăng. 

(Trích sách Nam Phương - Bà xã sau cùng, Saigonbooks và Nhà xuất bản Thế giới)


Xem thêm: váy ngủ gợi cảm vera

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét